Thay đổi môn Ngữ văn khó nhưng cần thiết để giúp học sinh thoát khỏi lối
học thuộc lòng, phát huy sáng tạo, có không gian thể hiện cái tôi của
mình.
Đó là chia sẻ của cô giáo Nguyễn Hà Hương Ly giáo viên môn Ngữ văn
Trường Trung học phổ thông Kiến Thuỵ (huyện Kiến Thuỵ, Hải Phòng) sau
một thời gian thực hiện giảng dạy môn Ngữ văn theo chương trình giáo dục phổ thông 2018.
 |
|
Cô giáo Nguyễn Hà Hương Ly cho rằng sự thay đổi của môn Ngữ văn khó nhưng rất cần thiết (Ảnh: Phạm Linh)
|
Cô giáo Hương Ly cho biết: “Với cương vị giáo viên, bước đầu nghiên cứu, tiếp cận với sách giáo khoa mới, chương trình mới môn Ngữ văn sẽ không tránh khỏi hoang mang nhưng tôi vẫn cảm thấy hứng thú và kỳ vọng vào sự thay đổi này.
Môn Ngữ văn mang đến hướng đi hoàn toàn khác so với chương trình cũ
và thoát ra khỏi lối kiểm tra đánh giá theo hệ thống những tác phẩm đã
học.
Qua đó, buộc học sinh phải có được năng lực, kiến thức chung về loại
thể để giải quyết các nhiệm vụ liên quan đến những loại thể mà các em
được học chứ không cụ thể vào một tác phẩm nào cả.
Song song với đó, giáo viên cũng phải thay đổi hoàn toàn phương pháp
dạy học. Đi từ đào sâu kiến thức của một tác phẩm làm ví dụ để hướng dẫn
học sinh phương pháp tiếp cận với loại thể.
Không chỉ là khả năng cảm thụ văn bản mà còn có khả năng tư duy để
sau này khi kiểm tra đánh giá học sinh có thể sắp xếp các thông tin,
biết cách trình bày một vấn đề.
Đặc biệt, học sinh hăng hái phát biểu, chia sẻ cảm nhận, luận điểm
của bản thân hơn, nhất là nhiều bạn học sinh nam không còn tâm lý sợ môn
Văn.
Ví dụ, như khi học sinh học bài thơ mới “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc
Tử, các em sẽ có kỹ năng đọc một bài thơ trữ tình như thế nào, chiến
thuật đọc là gì và làm những bước nào để tiếp cận với bài thơ trữ tình.
Giáo viên sẽ cung cấp những kiến thức cơ bản về đặc điểm của thơ mới,
có kỹ năng, kiến thức chung để tìm hiểu tất cả tác phẩm thơ mới khác.
Thực tế quá trình giảng dạy, cùng một văn bản nhưng nhiều học sinh sẽ
có nhiều hướng tìm hiểu rất mới, độc đáo mà đôi khi giáo viên phải học
lại học sinh.
Ví dụ như khi học bài thơ haiku “Chậm rì, chậm rì/ Kìa con ốc nhỏ
trèo núi Fuji”, tôi hướng dẫn học sinh về tương quan giữa cái nhỏ bé và
cái lớn lao, hành trình chinh phục những ước mơ, đích đến lớn lao của
con người.
Tuy nhiên, một học sinh lại đưa ra ý kiến về tương giao giữa cái động
và cái tĩnh, gửi gắm thông điệp ước mơ, đích đến thì luôn bất động ở đó
và con người phải chủ động chinh phục đích đến của mình. Đây là luận
điểm mà trước đấy chính bản thân tôi cũng chưa nghĩ đến.
Ở một khía cạnh khác, môn Ngữ văn
hiện tại có những nét tương đồng với môn tự nhiên, giáo viên sẽ cung
cấp cho học sinh công thức, đường đi để các em tự tìm đến đích của mình.
Các tác phẩm học trong sách giáo khoa chỉ đóng vai trò ví dụ giúp học
sinh rút ra được công thức chung, phương pháp chung để vận dụng giải
quyết các tác phẩm khác.
Sẽ không còn câu chuyện học tủ, học thuộc lòng hay văn mẫu nữa mà chỉ
có công thức chung và học sinh phải chủ động, sáng tạo trong lối viết
của mình”.
 |
|
Giáo viên bày tỏ sự kỳ vọng vào một môn Ngữ văn mới hấp dẫn hơn, đánh tan tâm lý sợ văn của học sinh (Ảnh: Phạm Linh)
|
Sau khi học sinh làm bài kiểm tra đánh giá định kỳ đầu tiên theo
chương trình mới, theo cô giáo Hương Ly, đây là cơ sở quan trọng để giáo
viên có sự điều chỉnh trong phương pháp giảng dạy giúp học sinh thích
nghi với sự thay đổi: “Ngay từ những buổi học đầu tiên, tôi đã trò
chuyện, chuẩn bị sẵn sàng cho học sinh tâm thế khi tham gia kiểm tra
đánh giá có thể gặp tác phẩm chưa bao giờ đọc đến.
Về cấu trúc đề thi theo chương trình mới, sẽ có từng cấp độ, để đạt được điểm trung bình, khá không phải là khó.
Trước đây, những học sinh viết càng dài thì càng được điểm cao còn
bây giờ sẽ giới hạn dung lượng trong khoảng 500 chữ. Bài vận dụng cao
nên yêu cầu học sinh khả năng chọn lọc ý, lối viết hàm xúc hơn.
Câu hỏi trắc nghiệm được xâu chuỗi lại những câu hỏi đọc hiểu, tái
hiện lại quá trình đọc hiểu văn bản để tiếp cận đến giá trị nội dung và
nghệ thuật của tác phẩm đó. Từ kết quả của việc đọc đó, học sinh sẽ lấy
đó là căn cứ để thực hành bài viết.
Việc học văn bây giờ không chỉ gói gọn trong kiến thức của môn Ngữ
văn nữa mà ưu tiên hơn phát triển kỹ năng ngôn ngữ của học sinh để phục
vụ cho cuộc sống sau này.
Theo đó, học sinh học môn Ngữ văn cũng nhẹ nhàng hơn rất nhiều, không
có áp lực học thuộc lòng và có kỹ năng để đạt được khoảng 70 - 80% đề
thi nhưng sau cấp độ đó sẽ phân hoá rất rõ.
Sau khi kiểm tra giữa học kỳ I, kết quả môn Ngữ văn khá tốt, ở lớp
tôi đang giảng dạy, chỉ có vài học sinh ở khung điểm 7 còn lại đều 8, 9
điểm kể cả đối với các lớp tự nhiên”.